CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI
NAM XƯƠNG
(Trích Truyền kì mạn lục - Nguyễn Dữ)
I- GỢI Ý
1. Tác giả:
Nguyễn Dữ (chưa rõ năm sinh, năm mất), người huyện Trường Tân, nay là huyện
Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Nguyễn Dữ sống ở thế kỉ XVI, là thời kì triều đình
nhà Lê đã bắt đầu khủng hoảng, các tập đoàn phong kiến Lê, Mạc, Trịnh tranh giành
quyền bính, gây ra những cuộc nội chiến kéo dài. Ông học rộng, tài cao, nhưng
chỉ làm quan có một năm rồi xin nghỉ.
2. Tác phẩm:
Tác phẩm nổi tiếng nhất của Nguyễn
Dữ là Truyền kì mạn lục, gồm 20 truyện viết bằng tản văn, xen lẫn biền văn
và thơ ca, cuối mỗi truyện thường có lời bình của tác giả, hoặc của một người cùng
quan điểm với tác giả.
Chuyện người con gái Nam Xương thể hiện niềm cảm thương của tác giả đối với số phận oan nghiệt, đồng
thời ca ngợi vẻ đẹp truyền thống của của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ
phong kiến.
... Về mặt nội dung, Truyền kì mạn lục chứa đựng nội dung phản
ánh hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm cũng đồng thời cho thấy những
phức tạp trong tư tưởng nhà văn.
Nguyễn Dữ phản ánh hiện thực xã hội
thời đại mình qua thể truyền kì nên tác giả thường lấy xưa để nói nay, lấy cái
kì để nói cái thực. Đọc Truyền kì mạn lục
nếu biết bóc tách ra cái vỏ kì ảo sẽ thấy cái cốt lõi hiện thực, phủi đi lớp sương
khói thời gian xưa cũ, sẽ thấy bộ mặt xã hội đương thời. Đời sống xã hội dưới
ngòi bút truyền kì của nhà văn hiện lên khá toàn diện cuộc sống người dân từ bộ
máy nhà nước với quan tham lại nhũng đến những quan hệ với nền đạo đức đồi
phong bại tục.
Nếu khi phê phán, tố cáo hiện thực
xã hội, Nguyễn Dữ chủ yếu đứng trên lập trường đạo đức thì khi phản ánh số phận
con người, ông lại xuất phát tự lập trường nhân văn. Chính vì vậy, Truyền kì mạn lục chứa đựng một nội dung
nhân đạo sâu sắc. Về phương diện này, Nguyễn Dữ là một trong những nhà văn mở đầu
cho chủ nghĩa nhân văn trong văn học trung đại Việt Nam. Truyền kì mạn lục phản ánh số phận con người chủ yếu qua số phận của
người phụ nữ, đồng thời hướng tới những giải pháp xã hội, nhưng vẫn bế tắc trên
đường đi tìm hạnh phúc cho con người". (Từ điển văn học - NXB Thế giới, 2005).
3. Thể loại:
Truyện truyền kì là những truyện kì lạ được lưu truyền. Truyền
kì mạn lục của Nguyễn Dữ là
sự ghi chép tản mạn về những truyện ấy. Tác phẩm được viết bằng chữ Hán, khai
thác các truyện cổ dân gian, các truyền thuyết lịch sử, dã sử của Việt Nam. Nhân
vật chính trong Truyền kì mạn lục phần
lớn là những người phụ nữ đức hạnh nhưng lại bị các thế lực phong kiến, lễ giáo
khắc nghiệt xô đẩy vào những cảnh ngộ éo le, oan khuất. Bên cạnh đó còn có kiểu
nhân vật là những người trí thức có tâm huyết nhưng bất mãn với thời cuộc, không
chịu trói mình vào vòng danh lợi chật hẹp.
4. Tóm tắt:
Câu chuyện kể về Vũ Thị Thiết - người con gái quê ở Nam Xương, tính tình nết
na thuỳ mị. Lấy chồng là Trương Sinh chưa được bao lâu thì chàng phải đi lính,
nàng ở nhà phụng dưỡng mẹ già và nuôi con nhỏ. Để dỗ con, nàng thường chỉ bóng
mình trên tường và bảo đó là cha nó. Khi Trương Sinh về thì con đã biết nói. Đứa
bé ngây thơ kể với Trương Sinh về người đêm đêm vẫn đến nhà. Trương Sinh sẵn có
tính ghen, mắng nhiếc và đuổi vợ đi. Phẫn uất, Vũ Thị Thiết chạy ra bến Hoàng
Giang tự vẫn. Khi hiểu ra nỗi oan của vợ thì đã muộn, Trương Sinh lập đàn giải
oan cho nàng.
Cũng có thể tạm chia truyện thành
hai phần, lấy mốc là việc Vũ Nương nhảy xuống sông tự tử:
- Đoạn 1 (từ đầu đến "và xin
chịu khắp mọi người phỉ nhổ"): bị chồng nghi oan. Vũ Nương tự vẫn.
- Đoạn 2 (còn lại): nỗi oan được
giải, Vũ Nương được cứu sống nhưng vẫn không trở về đoàn tụ cùng gia đình.
II- GIÁ TRỊ TÁC PHẨM
Có lẽ người Việt Nam chúng ta ai
cũng hiểu và biết cách sử dụng cụm từ "oan Thị Kính" - một nỗi oan khuất mà người bị oan không có cách gì để
thanh minh. Thị Kính chỉ được giải oan nhờ Đức Phật hay nói đúng hơn là nhờ tấm
lòng bao dung độ lượng, luôn hiểu thấu và sẵn sàng bênh vực cho những con người
bé nhỏ, thua thiệt, oan ức trong xã hội của những nghệ sĩ dân gian.
Người phụ nữ trong Chuyện người con gái Nam Xương không có được
cái may mắn như Thị Kính mặc dù nỗi oan của nàng cũng không kém gì, thậm chí kết
cục còn bi thảm hơn. Thị Kính được lên toà sen trong khi người phụ nữ này phải
tìm đến cái chết để chứng tỏ sự trong sạch của mình. Mặc dù vậy, nhân vật này vẫn
không được nhiều người biết đến, có lẽ bởi phương thức kể. Ai cũng biết đến Thị
Kính vì câu chuyện về nàng được thể hiện qua một vở chèo - một loại hình
nghệ thuật dân gian quen thuộc, được nhân dân ưa thích từ xa xưa, trong khi Người con gái Nam Xương là một tác phẩm
văn học viết thời trung đại (trong điều kiện xã hội phong kiến, nhân dân lao động
hầu hết đều không biết chữ). Ngày nay đọc lại tác phẩm này, chúng ta có thể hiểu
thêm rất nhiều điều về thân phận những người phụ nữ trong xã hội phong kiến qua
nghệ thuật dựng truyện, dẫn dắt mạch truyện cũng như nghệ thuật xây dựng nhân vật,
cách thức kết hợp các phương thức tự sự, trữ tình và kịch của tác giả.
Trong phần đầu của truyện, trước
khi biến cố lớn xảy ra, tác giả đã dành khá nhiều lời để ca ngợi vẻ đẹp của người
phụ nữ, từ nhan sắc cho đến đức hạnh. Hầu như không có sự kiện nào thật đặc biệt
ngoài những chi tiết (tiễn chồng đi lính, đối xử với mẹ chồng...) chứng tỏ nàng
là một người con gái đẹp người đẹp nết, một người vợ hiền, một người con dâu hiếu
thảo. Chỉ có một chi tiết ở đoạn mở đầu: "Song Trương có tính đa nghi, đối
với vợ phòng ngừa quá sức". Bạn đọc có thể dễ bỏ qua chi tiết này vì với
phẩm hạnh của nàng, dẫu Trương Sinh có đa nghi đến đâu cũng khó có thể xảy ra
chuyện gì được.
Nhưng đó lại là một chi tiết rất
quan trọng, thể hiện tài kể chuyện của tác giả. Chi tiết nhỏ được cài rất khéo đó
chính là sợi dây nối giữa phần trước và phần sau, xâu chuỗi các yếu tố trong
truyện, đồng thời giúp bạn đọc hiểu được nội dung tư tưởng của tác phẩm.
Mạch truyện được dẫn rất tự nhiên.
Sau khi giặc tan, Trương Sinh trở về nhà, bế đứa con nhỏ ra thăm mộ mẹ. Thằng bé
quấy khóc, khi Sinh dỗ dành thì nó nói:
- "Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết
nói, chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít".
Thật chẳng khác gì một tiếng sét
bất chợt. Lời con trẻ vô tình đã thổi bùng lên ngọn lửa ghen tuông trong lòng
người đàn ông đa nghi (tác giả đã nói đến từ đầu). Nếu coi đây là một vở kịch
thì lời nói của đứa con chính là nút thắt, mở ra mâu thuẫn đồng thời ngay lập tức
đẩy mâu thuẫn lên cao. Sau khi gạn hỏi con, nghe thằng bé nói có một người đàn ông
"đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi...", mối
nghi ngờ của Sinh đối với vợ đã đến mức không thể nào gỡ ra được.
Một lần nữa, chi tiết về tính hay
ghen của Sinh phát huy tác dụng triệt để. Nó lí giải diễn biến câu chuyện, đồng
thời giải đáp những thắc mắc của bạn đọc một cách hợp lí. Tại sao Sinh không chịu
nghe lời người vợ thanh minh? Tại sao Sinh không nói cho vợ biết lí do mình tức
giận như thế? (Nếu Sinh nói ra thì ngay lập tức câu chuyện sẽ sáng tỏ). Đó chính
là hệ quả của tính đa nghi. Vì đa nghi nên Sinh không thể tỉnh táo suy xét mọi
việc. Cũng vì đa nghi nên lời nói (dù rất mơ hồ) của một đứa bé cũng trở thành
một bằng chứng "không thể chối cãi" rằng vợ chàng đã ngoại tình khi
chồng đi vắng. Sự vô lí đã trở nên hợp lí bởi sự kết hợp giữa hoàn cảnh và tính
cách nhân vật.
Không biết vì sao Sinh lại nghi
oan nên người vợ không thể thanh minh. Để chứng tỏ sự trong sạch của mình, nàng
chỉ có mỗi cách duy nhất là tự vẫn. Vợ Sinh chết mà mâu thuẫn kịch vẫn không được
tháo gỡ, mối nghi ngờ trong lòng Sinh vẫn còn nguyên đó.
Theo dõi mạch truyện từ đầu, bạn đọc
tuy không một chút nghi ngờ phẩm hạnh của người phụ nữ nhưng cũng không lí giải
nổi chuyện gì đã xảy ra và vì sao đứa bé lại nói như vậy. Đây cũng là một yếu tố
chứng tỏ nghệ thuật kể chuyện của tác giả. Thủ pháp "đầu cuối tương ứng"
được vận dụng. Đứa trẻ ngây thơ là nguyên nhân dẫn đến bi kịch thì cũng chính nó
trở thành nhân tố tháo gỡ mâu thuẫn một cách tình cờ. Sau khi vợ mất, một đêm
kia, đứa trẻ lại nói:
- Cha Đản lại đến kia kìa!
Chàng hỏi đâu. Nó chỉ bóng chàng ở trên vách:
- Đây này!
Mâu thuẫn được tháo gỡ cũng bất
ngờ như khi nó phát sinh. Đứa trẻ có biết đâu rằng, nó đã gây ra một sự hiểu lầm
khủng khiếp để rồi khi người chồng hiểu ra, hối hận thì đã quá muộn. Ngay cả bạn
đọc cũng phải sững sờ: sự thật giản đơn đến thế mà cũng đủ đẩy một con người vào
cảnh tuyệt vọng.
Ai là người có lỗi? Đứa trẻ đương
nhiên là không vì nó vẫn còn quá nhỏ, chỉ biết thắc mắc vì những lời nói đùa của
mẹ. Vợ Sinh cũng không có lỗi vì nàng biết đâu rằng những lời nói đùa với con để
vợi nỗi nhớ chồng lại gây ra hậu quả đến thế! Có trách chăng là trách Trương
Sinh vì sự ghen tuông đến mất cả lí trí. Chi tiết này gợi lên nhiều suy nghĩ:
giá như không phải ở trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, giá như người
vợ có thể tự bảo vệ cho lẽ phải của mình thì nàng đã không phải chọn cái chết
thảm thương như vậy. Tính đa nghi của Sinh đã không gây nên hậu quả xấu nếu như
nó không được nuôi dưỡng trong một môi trường mà người phụ nữ luôn luôn phải nhận
phần thua thiệt về mình. ý nghĩa này của tác phẩm hầu như không được tác giả trình
bày trực tiếp nhưng qua hệ thống các biến cố, sự kiện được sắp xếp hợp lí, đưa
bạn đọc từ bất ngờ này đến bất ngờ khác, tác giả đã thể hiện một cách tinh tế sự
cảm thông sâu sắc của mình đối với những số phận bất hạnh, đặc biệt là của người
phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Nếu câu chuyện dừng lại ở đây thì
có thể cho rằng nó đã được sáng tạo theo một lỗi viết khá mới mẻ và hiện đại.
Nhưng Nguyễn Dữ lại là người nổi tiếng với những câu chuyện truyền kỳ. Hoang đường,
kì ảo là những yếu tố không thể thiếu trong những sáng tác thuộc loại này. Mặt
khác, tuy là một tác giả của văn học viết trung đại nhưng hẳn Nguyễn Dữ cũng chịu
ảnh hưởng ít nhiều từ tư tưởng "ở hiền gặp lành" của nhân dân lao động.
Bản thân ông cũng luôn đứng về phía nhân dân, đặc biệt là những người phụ nữ có
hoàn cảnh éo le, số phận oan nghiệt trong xã hội cũ. Bởi vậy, tác giả đã tạo
cho câu chuyện một lối kết thúc có hậu. Tuy không được hoá Phật để rồi sống ở
miền cực lạc như Thị Kính nhưng người phụ nữ trong truyện cũng được thần rùa cứu
thoát, tránh khỏi một cái chết thảm thương.
Phần cuối truyện còn được cài thêm
nhiều yếu tố kì ảo khác nữa. Ví dụ như chi tiết chàng Phan Lang trở thành ân nhân
của rùa, sau lại được rùa đền ơn. Trên đường chạy giặc, bị đắm thuyền, dạt lên đảo
và được chính con rùa năm xưa cứu thoát. Đó có thể coi là sự "đền ơn trả
nghĩa" - những hành động rất phù hợp với lí tưởng thẩm mĩ của nhân
dân. Việc người phụ nữ trở về gặp chồng nhưng không đồng ý trở lại chốn nhân
gian có lẽ cũng nhằm khẳng định tư tưởng nhân nghĩa ấy. Mặc dù đã được cứu thoát,
được giải oan nhưng vì lời thề với vợ vua biển Nam Hải, nàng quyết không vì hạnh
phúc riêng mà bỏ qua tất cả. Những chi tiết đó càng chứng tỏ vẻ đẹp trong tính
cách của người phụ nữ, đồng thời cũng cho thấy thái độ ngưỡng mộ, ngợi ca của tác
giả đối với người phụ nữ trong câu chuyện này nói riêng và người phụ nữ Việt
Nam nói chung.
0 Nhận xét