KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
(Trích Truyện Kiều
- Nguyễn Du)
I - GỢI Ý
1. Tác giả:
(Xem bài Chị em Thuý Kiều).
2. Đoạn trích:
Đoạn trích nằm ở phần thứ hai trong Truyện
Kiều (Gia biến và lưu lạc). Gia đình Kiều gặp cơn nguy biến. Do thằng bán tơ
vu oan, cha và em Kiều bị bắt giam. Để chuộc cha, Kiều quyết định bán mình. Tưởng
gặp được nhà tử tế, ai dè bị bắt vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự tử. Tú
Bà (chủ quán lầu xanh) vờ hứa hẹn gả chồng cho nàng, đem nàng ra giam lỏng ở lầu
Ngưng Bích, sau đó mụ sẽ nghĩ cách để bắt nàng phải tiếp khách làng chơi.
Đoạn trích gồm hai mươi hai câu. Sáu câu thơ đầu thể hiện
hoàn cảnh cô đơn, tội nghiệp của Thuý Kiều; tám câu thơ tiếp thể hiện nỗi thương
nhớ của nàng về Kim Trọng và về cha mẹ; tám câu còn lại thể hiện tâm trạng đau
buồn, âu lo của Thuý Kiều.
II - GIÁ TRỊ TÁC PHẨM
Nguyễn Du là một bậc thầy về tả cảnh.
Nhiều câu thơ tả cảnh của ông có thể coi như là chuẩn mực cho vẻ đẹp của thơ ca
cổ điển:
- Dưới trăng, quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập loè đâm bông.
- Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng...
Với những câu thơ này, Nguyễn Du đã
làm đẹp, làm giàu có thêm rất nhiều cho ngôn ngữ dân tộc. Từng có ý kiến cho rằng,
so với tiếng Hán vốn có tính hàm súc, tính biểu hiện rất cao thì tiếng Việt trở
nên quá nôm na, ít khả năng biểu hiện. Tuy nhiên, Nguyễn Du đã chứng minh rằng
ngôn ngữ tiếng Việt có một khả năng biểu hiện vô giới hạn.
Nhưng Nguyễn Du không chỉ giỏi về
tả cảnh mà còn giỏi về tả tình cảm, tả tâm trạng. Trong quan niệm của ông, hai
yếu tố tình và cảnh không tách rời nhau mà luôn đi liền với nhau, bổ sung cho
nhau. Ví dụ, trong hai câu thơ tả cảnh chị em Thuý Kiều đi chơi xuân:
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Cảnh rất đẹp và thanh, ứng với tâm
hồn hai chị em đang nhẹ nhàng thơi thới. Ngược lại, khi người buồn thì cảnh cũng
buồn theo. Trong một đoạn thơ khác thuộc Truyện
Kiều, ông viết:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Hai câu thơ này thể hiện rất rõ quan niệm của Nguyễn Du về
mối quan hệ giữa tâm trạng của con người và cảnh vật. Cảnh vật đẹp hay không đẹp,
nhẹ nhàng, thanh thoát hay nặng nề, u ám phụ thuộc rất nhiều vào tâm trạng của
con người trước cảnh đó.
Đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích"
là sự kết hợp, giao hoà của hai yếu tố cảnh vật và tâm trạng. Về cảnh vật có lầu
cao, có non xanh nước biếc, sơn thuỷ hữu tình. Nếu Thuý Kiều ở vào một hoàn cảnh
khác, trong tâm trạng khác thì hẳn cảnh đó sẽ rất đẹp. Tuy nhiên, tâm trạng Kiều
lại đang rất u ám, sầu não: bị Tú Bà giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, Kiều da diết
nhớ cha mẹ, nhớ người yêu, đồng thời lại rất đau xót cho thân phận mình. Cảnh vật,
do đó, nhuốm màu tâm trạng:
Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung.
Kiều ngắm cảnh hay Kiều đối cảnh? Thật khó có thể nói là
"ngắm" theo nghĩa thông thường của từ này. Bởi "ngắm" có
nghĩa là chiêm ngưỡng, thưởng ngoạn. Kiều đang trong tâm trạng như thế sao có
thể thưởng ngoạn cho được? Bởi vậy, dù có cả "vẻ non xa" lẫn "tấm
trăng gần" nhưng cảnh vật ấy chẳng thể nào gợi lên một chút tươi vui hay ấm
áp. Nhà thơ đã dùng hai chữ "ở chung" thật khéo. Kiều trông thấy tất
cả những thứ đó nhưng với nàng, chúng chẳng khác gì nhau và càng không có gì đặc
biệt. Hai yếu tố trái ngược (non xa, trăng gần) tưởng như phi lí nhưng thực ra đã
diễn tả rất chính xác sự trống trải của cảnh vật qua con mắt của Kiều. Khung cảnh
"bốn bề bát ngát" chỉ càng khiến cho lòng người thêm gợi nhớ:
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.
Có thể hình dung rất rõ một không
gian mênh mang đang trải rộng ra trước mắt Kiều. Một người bình thường đứng trước
không gian ấy cũng khó ngăn được nỗi buồn. Với Kiều, không gian rộng rãi, trống
trải ấy chỉ càng khiến nàng suy nghĩ về cuộc đời mình:
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Bởi trong những
câu thơ tả cảnh trên đã thấm đẫm cái "tình" (tâm trạng) của Kiều nên đến
những câu thơ này, Nguyễn Du đã bắt vào mạch tả tâm trạng một cách hết sức tự
nhiên. ý thơ chuyển đổi rất linh hoạt: tả cảnh gắn với không gian. Không gian
cao rộng (non xa, trăng gần) càng khiến cho cảnh mênh mang, dàn trải. Tả tâm trạng
lại gắn với thời gian. Thời gian dằng dặc (mây sớm, đèn khuya) càng cho thấy tâm
trạng chán nản, buồn tủi của Kiều. "Nửa tình nửa cảnh" - trước mắt là tình hay là cảnh, dường
như cũng không còn phân biệt được nữa.
Theo dòng tâm trạng của Kiều câu thơ bắt vào nỗi nhớ:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
Nhớ nhà, trước hết Kiều nhớ đến
Kim Trọng, nhớ đến chén rượu thề nguyền dưới trăng. Đối với một người luôn đa sầu
đa cảm, nặng tình nặng nghĩa như Thuý Kiều, cảm xúc ấy thật xa xót. Càng nhớ đến
Kim Trọng thì Kiều lại càng đau đớn cho thân phận mình. Việc Kiều thương Kim Trọng
đang chờ mong tin mình một cách vô vọng đã cho thấy một vẻ đẹp khác trong tâm hồn
nàng: Kiều luôn nghĩ đến người khác trước khi nghĩ đến bản thân mình. Tấm lòng ấy
thật cao đẹp và đáng quý biết bao!
Tiếp theo là Kiều nhớ đến cha mẹ. Có ý kiến cho rằng, Kiều
đã nhớ đến người yêu trước rồi mới nhớ đến cha mẹ, phải chăng là nàng đã đặt chữ
"tình" lên trên chữ "hiếu"? Thực ra, việc Nguyễn Du miêu tả
nỗi nhớ của Kiều dành cho Kim Trọng trước rồi mới miều tả nỗi nhớ cha mẹ là hoàn
toàn hợp lí. Kiều không hề đặt chữ "hiếu" sau chữ "tình".
Khi gia đình gặp tai biến, trước câu hỏi "Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn?",
Kiều đã dứt khoát lựa chọn chữ "hiếu" bằng hành động bán mình chuộc
cha. Giờ đây, khi cha và em nàng đã được cứu, người mà nàng cảm thấy mình có lỗi
chính là Kim Trọng. Nhưng không vì thế mà nỗi nhớ cha mẹ kém phần day dứt:
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
Những thành ngữ, điển tích, điển
cố (tựa cửa hôm mai, quạt nồng ấp lạnh, Sân
Lai, gốc tử) liên tục được sử dụng đã thể hiện rất rõ tình cảm nhớ nhung sâu
nặng cũng như những băn khoăn trăn trở của Thuý Kiều khi nghĩ đến cha mẹ, nghĩ đến
bổn phận làm con của mình. Trong hoàn cảnh thực tế, những suy nghĩ, tâm trạng đó
càng chứng tỏ nàng là một người con rất mực hiếu thảo.
Tám câu thơ cuối cũng nằm trong số
những câu thơ tả cảnh hay nhất của Truyện
Kiều. Chúng thể hiện rất rõ nét nghệ thuật "tả cảnh ngụ tình" của
Nguyễn Du:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ dàu dàu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh...
Nếu tách riêng các yếu tố ngoại cảnh
ra mà xét thì có thể thấy đó là một khung cảnh thật thơ mộng và lãng mạn: có cánh
buồm thấp thoáng, có man mác hoa trôi, có nội cỏ chân mây mặt đất một màu... Thế
nhưng khi đọc lên, những câu thơ này chỉ khiến cho lòng người thêm sầu muộn, ảo
não. Nguyên nhân là bởi trước mỗi cảnh vật kia, sừng sững án ngữ cụm từ
"buồn trông". Không phải là "xa trông" như người ta vẫn nói,
cũng không phải là "ghé mắt trông" như Xuân Hương đã từng tinh nghịch
mà điền trước đền thờ Sầm Nghi Đống, ở đây, nhân vật trữ tình chỉ có một tâm thế
duy nhất: "buồn trông". Tâm trạng nàng đang ngổn ngang trăm mối: nhớ
người yêu, nhớ cha mẹ, cảm giác mình là người có lỗi,... và nhất là đang hết sức
đau xót cho thân phận mình. Bởi vậy, cảnh vật ấy cần được cảm nhận theo con mắt
của Thuý Kiều: cánh buồm thấp thoáng nổi trôi vô định, hoa trôi man mác càng gợi
nỗi phân li, nội cỏ không mơn mởn xanh mà "dàu dàu" trong sắc màu tàn
úa... Nổi bật lên trong cảnh vật đó là những âm thanh mê hoặc:
Buồn trông sóng cuốn mặt duềnh
ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng đã nhiều lần miêu tả âm thanh. Có thể nói
lần nào ông cũng thành công. Có khi chỉ qua một vài từ, ông đã diễn tả rất chính
xác cảnh huyên náo trong nhà Thuý Kiều khi bọn vô lại kéo đến nhà:
Trước thầy sau tớ xôn xao
Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi.
Nguyễn Du đặc biệt thành công khi
ông tả tiếng đàn của Kiều. Tuỳ theo tâm trạng, mỗi lần tiếng đàn của Kiều cất lên
là một lần người nghe phải chảy nước mắt khóc cho số phận oan nghiệt của nàng.
Trong
đoạn thơ này, Nguyễn Du không tả tiếng đàn mà tả tiếng sóng. Trong khung cảnh bát
ngát, mênh mang, tiếng sóng vỗ "ầm ầm" (lưu ý: nhà thơ đã đảo ngữ để
cho ấn tượng đó càng rõ ràng hơn) quả là một thứ âm thanh hết sức bất thường. Dường
như nó muốn phá vỡ khung cảnh nặng nề nhưng yên tĩnh, nó dứt Kiều ra khỏi dòng
suy tư về gia đình, người thân mà trả nàng về với thực tại nghiệt ngã.
Ngoài ra, dường như đó còn là những
dự cảm về quãng đời đầy những khổ đau, tủi nhục ê chề mà Kiều sắp phải trải
qua.
0 Nhận xét